SỰ HỌC
Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.”(Tôi Đi Học – Thanh Tịnh)
Thật hay, thật đẹp những cảm xúc của Thanh Tịnh khi ông hồi tưởng về ngày đầu đi học. Dù được viết lên chỉ để mở đầu cho một truyện ngắn, đoạn văn vẫn trở thành những dòng thuộc lòng của không biết bao nhiêu người, bởi với những ai đã một lần cắp sách đến trường, thì kỷ niệm về ngày đầu đi học vẫn là kỷ niệm khó quên. Đọc đoạn văn này, ai ai cũng cảm thấy trỗi dậy những cảm xúc tương tự như của chính cậu bé làng Dương Nỗ ngày nào.
Nhưng phải chăng người ta, khi đọc lại đoạn văn trên, chỉ là để thưởng thức những cảm xúc và làm sống lại những hoài niệm, rồi vô tư mỉm cười như các cô cậu “ăn chưa no lo chưa tới”? Phải chăng sự học của con em chúng ta hôm nay vẫn êm đềm và đầy hứa hẹn như trong thời của cậu bé Thanh Tịnh?
Trong bầu khí những ngày đầu của Niên học mới, “Nhịp Sống Đạo” xin chia sẻ đôi dòng về Sự Học, như thể hiện cho sự đồng nhịp của “quả tim” cùng thổn thức và lo lắng cho các thế hệ tương lai.
1. Sự học.
Sự học là việc trau dồi kỹ năng hoặc tiếp nhận kiến thức của con người theo nhiều kênh khác nhau, từ thụ động (được dạy) đến chủ động (tự học), từ sự nghiên cứu đến việc tổng hợp để đưa ra kiến thức mới (sáng tạo). Có thể hiểu, sự học là quá trình học hỏi kéo dài cả đời người, nó lớn hơn nền giáo dục một người được hưởng và không bị hạn chế bởi vốn kiến thức và bằng cấp người ấy đạt được. Sự học tiếp nối và làm cho nền giáo dục nên hoàn bị và vốn kiến thức nên tròn đầy. Thiếu sự học, nền giáo dục của một người sẽ bị giới hạn và kho tàng kiến thức của nhân loại sẽ vô dụng đối với họ.
Sự học là thực tại lâu đời, xa xưa hơn cả những gì lịch sử loài người ghi lại. Vì ngay khi có con người, thì đã có sự học. Qua bao thời, sự học vẫn cần thiết và nhất thiết phải tồn tại. Còn con người, là còn sự học. Ở đâu có con người, ở đó có sự học. Điều thú vị là càng học nhiều, con người càng thấy rõ tầm quan trọng của sự học, càng phải đẩy mạnh và nâng cao sự học; học càng cao, càng phải học thêm nhiều điều. Là “con vật có lý trí” (Pascal), nên chỉ con người mới quan tâm tới sự học.
Chính nhờ sự học, mà con người mỗi ngày một biết rõ phẩm tính “nhân linh ư vạn vật” (cổ nhân) và vai trò “làm bá chủ chim trời và cá biển” (St 1,26) của mình. Nó khai sáng và đưa con người vào thế giới văn minh. Nó giúp con người nhảy vọt trong tầm hiểu biết và ứng dụng hiểu biết vào cuộc sống thực tế. Nó làm thay đổi nhận thức của con người về nguồn cội và hậu vận của mình và vị trí hiện tại của mình trong vũ trụ. Nó giúp con người hiểu biết để “tầm chánh, tránh tà” hầu nên hoàn thiện hơn. Càng học, người ta càng bớt cái phần “con” và càng thêm phần “người”. Cổ nhân còn nói: “Ngọc bất trác, bất thành khí; nhân bất học, bất tri lý” (Tam Tự Kinh).
Như bầu trời và đại dương, sự học cũng bao la vô ngần vô hạn. Chẳng ai dám tự hào cho rằng sự học của mình đã đầy đủ. Vì ngay cả khi một người đạt được học vị cao nhất, thì cũng không thể cho rằng ông thấu hiểu và nắm chắc tất cả kiến thức trong chuyên ngành ông học; còn với các chuyên ngành khác, ông vẫn mù mờ thiếu hiểu biết. Nhưng không như bầu trời và đại dương to lớn làm con người như nhỏ bé lại, sự học lại làm cho con người nên lớn lao hơn, vĩ đại hơn. Vũ trụ và quả đất này như ngày một nhỏ lại, nhờ sự học của con người. Con người lớn hơn không chỉ nhờ những kiến thức có được, mà còn biết cách vận dụng kiến thức để bắt thiên nhiên phục vụ chính mình và thu nhỏ khoảng cách giữa người với người dù gần hay xa trên các châu lục. Nhờ sự học, con người biết xây dựng cuộc sống tươi đẹp hơn, đượm tình huynh đệ hơn. Trái đất hôm nay như ngôi nhà nhỏ, đầu này khẽ gọi, đầu kia nghe!
Nói khái quát về sự học thì dễ, nhưng sự học tự nó không nhắm đến lý thuyết suông hay dừng lại ở những đánh giá hay dở cao thấp, mà hệ tại ở tính thực tiễn, nghĩa là học để làm gì. Bạn đi học, bạn nghiên cứu cốt là để được gì, đó mới là điều đáng quan tâm khi nói về sự học.
2. Tính thực tiễn của sự học.
Thực tế, khi nói tới sự học, người ta thường nghĩ ngay đến câu hỏi: “Học để làm gì?” Và câu trả lời thường phải thiên về tính vật chất của sự học, mới làm thoả mãn người nghe. Chẳng hạn: học để có nghề nghiệp, để thăng quan tiến chức, để được tăng lương, để nắm chắc chuyên môn, sành sỏi về nghiệp vụ, để người khác nể khối kiến thức của mình, để theo kịp thời đại, để có thêm bằng cấp… Thật ra, những điều này không xấu, lại còn kích thích cho sự học. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì cũng chỉ mới đạt được hai mục tiêu đầu của UNESCO, nghĩa là sự học vẫn chưa đến đâu, chưa thăng tiến thật sự cho cá nhân và cũng chưa hữu ích cho cộng đồng. Người ta phải hoàn thiện chính mình, chứ không chỉ hoàn thiện kiến thức và tay nghề của mình. Do đó, học để làm người “cho ra người” vẫn là mục tiêu chính đáng nhất. Hơn nữa, còn phải biết sống tương thân tương ái và chung tay xây dựng cộng đồng.
Quả vậy, ta nên sắp xếp các mục tiêu của sự học theo ba bậc thang như sau: Học cái gì không quan trọng bằng học như thế nào, học như thế nào không quan trọng bằng học xong thì làm được gì, và làm được gì thì không quan trọng bằng sẽ sống như thế nào. Học là để sống, để nên người. Hay như Đức Chân Phước Gio-an Phao-lô II: Cái mình ‘là’ (being) thì quan trọng hơn cái mình ‘có’ (having). Kiến thức, tay nghề, chỉ là cái mình “có”; sống thế nào mới là cái mình “là”. Nhưng bởi cái “có” vẫn luôn hữu ích cho cái “là”, nên sự học là cách thế hữu hiệu để người ta xây dựng nhân cách. Sự học giúp hoàn thiện bản thân.
Rất dễ nhận ra rằng, càng ngày người ta càng bám theo cái “có” hơn cái “là”. Nguy hiểm hơn là không dùng cái “có” để xây dựng cái “là” của mình, mà lại dùng nó cho những mục tiêu khác, để “có” thêm những cái “có” nguy hại. Sự học bị chi phối bởi tính thực dụng của người học. Nói cụ thể là học chỉ để kiếm cơm và kiếm tiền. Nên không ít trường hợp học cao nhưng nhân cách vẫn thấp, tính thiện vẫn thiếu. Ngày xưa, với nền học thiên về nghĩa lý (cái học của hiền nhân), dù hiểu biết về khoa học không cao, nhưng lại tạo ra được những nhà tư tưởng hay hiền triết mà xã hội thường kính cẩn gọi là thánh hiền. Ngày nay, với nền học từ chương khoa bảng (tục học) và nhất là với nền học duy khoa học ứng dụng hiện đại, thì lại hầu như chỉ tạo ra được những tay thợ lành nghề hay những lý thuyết gia về một chuyên môn nào đó, chứ có được rất ít những nhà tư tưởng hay thánh hiền. Theo nhiều nghiên cứu đáng tin cậy, Việt Nam chúng ta, trong gần một thế kỷ qua, không có được một nhà tư tưởng đúng nghĩa nào. Việc tự phong hay được kẻ khác hư cấu thành nhà tư tưởng, thực tế vẫn có, chỉ là sự lố bịch. Một ít người Việt thành công và thành danh nơi xứ người nói được là ngang tầm thế giới, cũng chỉ là những chính trị gia, thương gia hay khoa học gia về toán học, vật lý học…; trong nước thì chắc còn phải đợi lâu lắm!
Là con cái Chúa, ta không mơ trở thành những nhà tư tưởng, vì chẳng phải cứ mơ là thành, nhưng ta không thể không dùng sự học để xây dựng cái “là” của mình, sao cho nó thành cái “là” như Chúa muốn nơi ta.
3. Xây dựng nhân cách Ki-tô giáo bằng sự học.
Cần một định hướng Ki-tô giáo triệt để cho chính chúng ta và con em của chúng ta trong nỗ lực xây dựng nhân cách bằng sự học. Định hướng ấy phải bắt đầu từ xác tín rằng cái tự nhiên giúp xây dựng cái siêu nhiên. Sự học cần giúp người học hướng đến Đức Ki-tô như mục tiêu trọn hảo và như khuôn mẫu không thể thay thế của mình. Khuôn mẫu cho cái “là” của người Ki-tô hữu, chính là Đức Ki-tô. Sự học, nhất thiết phải giúp ta nên giống Ngài.
Điều cần thực hiện trước hết là xây dựng một nền giáo dục Ki-tô giáo. Công đồng Vaticanô II trong Tuyên Ngôn về Giáo dục Ki-tô giáo, đã dạy: “Mọi Ki-tô hữu, nhờ việc tái sinh bởi nước và Thánh Thần, đã trở nên những tạo vật mới, được gọi là con Thiên Chúa và quả thực như thế, nên có quyền hưởng một nền giáo dục Ki-tô giáo” (số 2). Nền giáo dục Ki-tô giáo, theo Thánh Công đồng, là giáo dục đức tin trong Giáo Hội. Nội dung của nó là Đức Ki-tô. Nền giáo dục này sẽ đặt nền tảng cho sự học của con em chúng ta, giúp các em biết nối kết kiến thức thu thập được từ trường học và trường đời với niềm tin và luân lý Ki-tô giáo để sử dụng chúng hợp với tinh thần Tin Mừng. Nó “giúp những người đã được rửa tội ngày càng ý thức hơn về hồng ân đức tin…”. Nó “còn giúp họ biết cách thờ phượng Thiên Chúa Cha trong tinh thần và chân lý… cũng như huấn luyện họ biết sống theo con người mới trong công bình và thánh thiện của chân lý” (nt). Giáo dục Ki-tô giáo sẽ giúp người học biết học thực, làm thực và sống thực, chứ không chạy theo sự giả dối của thế gian.
Thứ hai là tạo môi trường Ki-tô giáo cho sự học. Khác với nền giáo dục Ki-tô giáo, môi trường Ki-tô giáo của sự học chính là làm cho tính chất Ki-tô giáo len lỏi vào môi trường giáo dục và đời sống thường nhật của con em. Nói cách khác, trong khi nền giáo dục Ki-tô giáo là dạy về Đức Ki-tô cho con người, thì môi trường Ki-tô giáo của sự học lại làm cho tinh thần của Ngài trở nên môi trường bao bọc người học. Môi trường giáo dục ngày nay của xã hội ta là môi trường vô thần, nên xét về nguyên tắc, nó sẽ sản sinh ra những con người không biết Chúa và xa lạ với những thực tại tinh thần. Làm sao để ngay trong một môi trường như thế, người trẻ Ki-tô hữu không chiều theo cơn cám dỗ tầm thường hoá trí khôn con người trong việc tìm kiếm Thiên Chúa và khả năng của họ trong việc sống theo giáo huấn của Người.
Thực hiện nền giáo dục Ki-tô giáo và môi trường Ki-tô cho sự học trong bối cảnh của xã hội chúng ta là điều không dễ dàng. Nhất thiết phải bắt đầu từ gia đình. Nhưng ngoài ý thức của các bậc phụ huynh còn cần có sự cộng tác của mọi thành phần dân Chúa, ở mọi cấp độ cộng đoàn từ giáo xứ đến quốc gia.
Cuối cùng, nhưng quyết liệt hơn cả, là làm sao để mọi Ki-tô hữu, nhất là người trẻ, trong nỗ lực tìm kiếm sự khôn ngoan qua sự học, có thể nhận ra và sẵn sàng đánh đổi tất cả để được Đức Ki-tô, Đấng chịu chết trên thập giá. Ở mức độ này, tất cả sự học đều nhắm tới Đức Ki-tô và tìm sự hoàn thiện nơi Ngài. Làm sao để như thánh Phao-lô, dám xem tất cả sự hiểu biết là rác rưởi so với mối lợi là biết Đức Ki-tô; hơn nữa, còn nhận ra giá trị đích thật của thập giá cho dù đó là “sự điên rồ” hay “cớ vấp phạm” đối với người khác và ý thức được rằng cái khôn ngoan của con người chỉ là cái điên rồ trước mặt Thiên Chúa. Chỉ như thế, sự học mới có thể làm lớn mạnh nhân cách Ki-tô giáo nơi người học. Bởi càng học, Ki-tô tính càng lớn lên trong họ. Đến một lúc nào đó, cái “là” của họ được nên đồng hình đồng dạng với cái “Là” của chính Đức Ki-tô. Thánh Phao-lô dám quả quyết điều đó: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Kết luận: Sự học là đặc trưng của con người. Sự học giúp con người hoàn thiện bản thân từ kiến thức đến cách sống. Cần phát huy và định hướng sự học sao cho nó giúp mỗi chúng ta, những Ki-tô hữu, trở nên giống Đức Ki-tô, bởi có được sự khôn ngoan của Ngài và biết sống như Ngài.
Sứ mạng của những người đi trước là lo cho các thế hệ nối tiếp. Trong hoàn cảnh hiện tại, những thao thức và dấn thân trong việc giáo dục cũng như định hướng tương lai cho giới trẻ là điều vừa khẩn thiết vừa thường xuyên. Bận tâm cho sự học là điều cần thiết, nhưng bận tâm dùng sự học để xây dựng một nhân cách Ki-tô giáo trưởng thành lại còn cần thiết và quan trọng hơn. Mong rằng không một bậc phụ huynh nào lơ là sứ mạng của mình./.
Tác giả bài viết: Linh mục GB. Nguyễn Hồng Uy